Tại Hội thảo khoa học "Phát huy vai trò của phụ nữ trong tình hình mới", chiều 14/12, GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW, đã có bài phát biểu đề dẫn Hội thảo. Cổng Thông tin điện tử xin giới thiệu toàn văn bài phát biểu:
GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW,
phát biểu đề dẫn Hội thảo
Kính thưa đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương,
Thưa đồng chí Hà Thị Nga, Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Thưa các đồng chí lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương,
Thưa các nhà khoa học, các quý vị đại biểu!
Hội thảo khoa học “Phát huy vai trò của phụ nữ trong tình hình mới” là sự kiện khoa học, chính trị, xã hội có rất nhiều ý nghĩa, góp phần thúc đẩy nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là diễn đàn hết sức quan trọng để chúng ta cùng nhau thảo luận, trao đổi về những khó khăn, thuận lợi, kiến nghị các giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong tiến trình tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước; thực hiện thống nhất, có hiệu quả chủ trương của Đảng về: “xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”; góp phần sơ kết việc thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20-1-2018 của Ban Bí thư “Về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới”.
Thưa các đồng chí,
Phụ nữ Việt Nam có truyền thống hết sức vẻ vang: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang; có những cống hiến, đóng góp vô cùng to lớn, trải qua nhiều gian khó, chịu nhiều mất mát, đau thương trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; và ngày nay, tiếp tục có vai trò và đóng góp rất quan trọng trong công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.
Kế thừa, phát huy truyền thống tôn trọng người phụ nữ rất nhân bản và tốt đẹp trong văn hoá Việt Nam, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ về bình quyền và bình đẳng giới của nhân loại, ngay từ rất sớm, Đảng ta đã đề ra những chủ trương hết sức đúng đắn về xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện, phát huy vai trò của phụ nữ; coi đó là ưu tiên chiến lược trong việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, phát huy tối đa nhân tố con người, để con người là trung tâm, chủ thể và là mục tiêu, nguồn lực, động lực quan trọng nhất của sự phát triển.
Triển khai thực hiện những chủ trương đúng đắn của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, công tác phụ nữ đã đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện; nổi bật là việc phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam, thể hiện trên các mặt sau:
(1)- Nhận thức về vai trò của phụ nữ, về công tác phụ nữ và bình đẳng giới được nâng cao.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội, nhận thức của toàn xã hội về vai trò, vị trí của phụ nữ, công tác phụ nữ và bình đẳng giới đã có những chuyển biến tích cực. Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân được thực hiện có hiệu quả. Luật Bình đẳng giới được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, đưa vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của nhiều cấp học, nhất là trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Hầu hết các cơ quan, đơn vị đã thành lập Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ. Thúc đẩy bình đẳng giới đã trở thành nhiệm vụ trung tâm trong phát triển kinh tế – xã hội, được thể chế hoá ngày càng đồng bộ, triển khai mạnh mẽ, có hiệu quả, thường xuyên từ trung ương đến địa phương. Nhận thức của xã hội về người phụ nữ ngày càng toàn diện hơn, đầy đủ hơn, lên án mạnh mẽ những hành vi lệch chuẩn, coi thường, phân biệt đối xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
(2)- Hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò và đóng góp cho đất nước, xã hội và gia đình.
Chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phụ nữ, bình đẳng giới đã được các cơ quan nhà nước thể hóa bằng và trong chính sách và pháp luật; thể hiện rõ nhất là việc ban hành các luật, như: Luật Bình đẳng giới (2006), Luật Hôn nhân và Gia đình (2014), Luật Lao động (2019), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2022), v.v. Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung chính sách, pháp luật về bình đẳng giới khá toàn diện, đồng bộ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nguyên tắc phổ biến về bình đẳng nam – nữ được cụ thể hóa trong nhiều văn bản luật pháp và chính sách trên mọi lĩnh vực; thể hiện rõ quan điểm, chủ trương của Đảng cũng như nỗ lực của Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về bình đẳng giới, như: Công ước của Liên hiệp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Cương lĩnh và Tuyên bố Hành động Bắc Kinh, Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) và Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs). Đặc biệt, bảo đảm và bảo vệ quyền con người trong đó có quyền của phụ nữ và trẻ em gái đã được xác định trong Hiến pháp năm 2013. Mọi hành vi vi phạm các quyền của phụ nữ và trẻ em gái đều bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
(3)- Nguồn nhân lực nữ, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được quan tâm đào tạo, trọng dụng, tôn vinh.
Lao động nữ đóng góp rất lớn vào công cuộc phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực, địa bàn; thậm chí chiếm đa số trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội. Chất lượng của lực lượng lao động nữ không ngừng được nâng cao, thể hiện qua trình độ học vấn, tay nghề, kỹ năng, vị trí, việc làm và thu nhập trong xã hội. Trong lĩnh vực kinh doanh, nhiều nữ doanh nhân đã khẳng định vai trò tiên phong trong xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. Tỷ lệ phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ngày càng tăng trong nhiều lĩnh vực, ngay cả trong những lĩnh vực như: quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Việt Nam là quốc gia có số lượng nữ đại biểu Quốc hội chiếm tỷ lệ cao trong khu vực (trong Quốc hội khóa XV có 151/499 đại biểu là nữ), đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện ASEAN. Có được những kết quả này là nhờ việc triển khai đồng bộ các nhóm chính sách, như: phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ; hỗ trợ phụ nữ trong đào tạo, bồi dưỡng, tiếp cận thông tin với hình thức phù hợp có tính đến đặc thù giới tính nữ và thiên chức người mẹ; khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ, tạo điều kiện đối với các nhóm phụ nữ yếu thế; tôn vinh các nhà khoa học nữ, doanh nhân nữ; đào tạo nguồn cán bộ nữ trẻ, phụ nữ người dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, v.v.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng, có được những kết quả nói trên có phần đóng góp hết sức quan trọng của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Trong những năm qua, Hội đã có sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương thức hoạt động với phương châm: xuất phát từ cơ sở, gần cơ sở, sát cơ sở, sát từng đối tượng phụ nữ, thực hiện tốt hơn chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ; tích cực phấn đấu vì bình đẳng giới và sự phát triển của phụ nữ. Sự phối hợp của các cơ quan trong công tác phụ nữ và bình đẳng giới ngày càng hiệu quả, thể hiện trên các mặt quan trọng, như: tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới; nắm bắt tư tưởng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nữ công nhân, viên chức, người lao động; xây dựng, bổ sung, sửa đổi các chính sách, pháp luật liên quan đến lao động nữ, công tác phụ nữ, bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ; đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ nữ; tổ chức và tham gia các hội thảo, hội nghị, tọa đàm, tập huấn về công tác phụ nữ...
Các đại biểu tham dự hội thảo
Thưa các đồng chí,
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc phát huy vai trò của phụ nữ Việt Nam vẫn còn có những hạn chế, khó khăn nhất định.
Thứ nhất, cần thấy rằng, nhận thức của một bộ phận xã hội, trong đó có cả cán bộ, đảng viên về thiên chức, vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội, về công tác phụ nữ và bình đẳng giới còn định kiến, chuyển biến rất chậm, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc, khiến cho phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi, bị phân biệt đối xử nhiều mặt, vẫn là người yếu thế trong cộng đồng. Bên cạnh đó, một bộ phận chị em chưa nhận thức đầy đủ những giá trị truyền thống, phẩm chất tốt đẹp, vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam; có nơi, có bộ phận còn mang tâm lý trông chờ, ỷ lại, lệ thuộc vào nam giới; chưa chủ động, tự giác phát huy vai trò và thiên chức của mình trong những công việc chung, tích cực tham gia phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng đất nước.
Thứ hai, hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển toàn diện vẫn chưa hoàn thiện; thiếu các chính sách đặc thù hỗ trợ phụ nữ, nhất là phụ nữ có điều kiện khó khăn. Trong lúc chúng ta đã có những ngày lễ lớn, những sự kiện tôn vinh người phụ nữ Việt Nam thì việc tổ chức, triển khai một số hoạt động, chương trình, đề án, vận hành một số cơ chế, thiết chế về phát huy vai trò của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới còn chậm, thậm chí vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ, làm cho có, cho xong chuyện.
Thưa các đồng chí,
Bối cảnh phát triển hiện nay của thế giới, khu vực và đất nước đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức rất mới đối với người phụ nữ Việt Nam trong học tập, lao động và công tác; trong tham gia vào quá trình hoạch định và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trong phát huy vai trò người vợ, người mẹ, người thầy đầu tiên; trong tổ chức, chăm lo cuộc sống, xây dựng tổ ấm gia đình.
Tại hội thảo này, nhằm phát huy vai trò, tiềm năng, thế mạnh, tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên và xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới, theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, tôi xin chia sẻ với các đồng chí một số vấn đề sau:
(1)- Phụ nữ thích ứng với quá trình chuyển đổi số. Quá trình số hoá đang tăng tốc, thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội làm thay đổi cách chúng ta sống, giao tiếp, làm việc; cả cách chúng ta quản lý, điều hành, giải quyết các công việc không chỉ ở cơ quan mà cả trong gia đình. Phải dám thay đổi, trước hết là thay đổi nhận thức và thói quen hành động, trang bị cho mình những kỹ năng số trở thành yêu cầu cấp bách để phụ nữ Việt Nam phát huy tốt hơn nữa vai trò, đóng góp của mình trong kỷ nguyên số. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, phụ nữ cũng cần được đặt vào trung tâm của các quá trình phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số, chính phủ số để thực hiện chuyển đổi số bao trùm, làm sao không để phụ nữ bị bỏ lại offline, tất cả cần được kết nối số.
(2)- Phụ nữ thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh. Phụ nữ đóng vai trò cực kỳ quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh đang trở thành yêu cầu phát triển cấp bách của nhân loại trước thách thức biến đổi khí hậu toàn cầu. Chiếm hơn một nửa dân số thế giới và dân số của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, phụ nữ sẽ là lực lượng đi đầu trong thực hiện xanh hoá lối sống và tiêu dùng. Phải nhận thức rõ rằng, xanh hóa không cản trở các cơ hội tạo ra thu nhập và việc làm; thậm chí còn mang lại nhiều việc làm hơn cho phụ nữ thông qua các hoạt động kinh tế mới, như: kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái và những mô hình phát triển thuận thiên, v.v mở ra cơ hội giúp chị em phụ nữ khởi nghiệp kinh doanh sáng tạo, nâng cao thu nhập để thoát nghèo.
(3)- Phụ nữ ứng phó với sự biến đổi dân số, xã hội và gia đình. Phụ nữ là tầng lớp dễ bị tổn thương nhất khi những dấu hiệu của già hoá dân số ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện và cũng dễ bị gạt ra bên ngoài nhất ngay cả trong xu hướng trung lưu hoá, công nghiệp hoá, đô thị hoá, số hoá đang tác động sâu sắc đến các gia đình và xã hội Việt Nam. Chúng ta vẫn chứng kiến, tại những đô thị lớn trên khắp mọi miền đất nước, có hàng trăm nghìn nữ công nhân đang phải sống xa gia đình, chen chúc trong các dãy nhà trọ bên cạnh các khu công nghiệp; trẻ em không có điều kiện được học hành, được chăm sóc y tế, bảo đảm an sinh và an toàn xã hội. Phụ nữ cần được phải quan tâm đầy đủ hơn, được bảo đảm có sự “công bằng” trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi lao động và chuyển đổi năng lượng. Phụ nữ cũng cần trang bị cho mình những kỹ năng mới để có được những cơ hội việc làm mới, thay vì chỉ lao động giản đơn, để tiến lên cùng với quá trình phát triển của đất nước.
(4)- Phụ nữ đóng góp cho sự phát triển, tiếp biến và hội nhập văn hoá. Từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn là chủ đề, chủ thể sáng tạo, trao truyền, đồng thời cũng là chủ thể thụ hưởng quan trọng bằng những đánh giá, cảm nhận hết sức tinh tế về những giá trị, sản phẩm văn hóa, văn nghệ của đất nước, dân tộc. Cần phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, giữa tính dân tộc và quốc tế, giữa cái phổ biến và đặc thù, giữa văn hoá đại chúng và văn hoá tinh hoa, bác học, giữa sự thống nhất và tính đa dạng của văn hoá, v.v. Với thiên chức của mình, là người mẹ, người vợ, người thày đầu tiên, phụ nữ là lực lượng xã hội định hình các trào lưu, xu hướng phát triển của văn hoá, văn nghệ; qua đó, thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hoá, dịch vụ văn hoá phát triển lành mạnh, để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, nguồn lực và động lực nội sinh để phát triển nhanh và bền vững đất nước.
(5)- Phụ nữ tham gia tích cực vào đời sống chính trị ngày càng sôi động và phong phú của đất nước.
Phụ nữ đã và đang tham gia rất tích cực vào các công tác, sinh hoạt trong cộng đồng. Tuy nhiên, cần tiếp tục tạo điều kiện để phụ nữ tham gia sâu rộng hơn vào đời sống chính trị của đất nước thông qua nhiều kênh, như: bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới trong công tác cán bộ; phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể xã hội, nhất là vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; thu hẹp nhanh khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ; triển khai công tác phụ nữ sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền; thực hiện đúng chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, để góp phần “xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, Đất nước ta ngày càng phát triển, phồn vinh”.
Thưa các đồng chí,
Tại Hội thảo hôm nay, tôi đề nghị các nhà khoa học, quản lý, quý vị đại biểu tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, thảo luận và đánh giá quá trình xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách về công tác phụ nữ, phát huy vai trò của phụ nữ trong tình hình mới.
Thứ hai, thảo luận và đánh giá việc tổ chức, hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Ủy Ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ trong thực hiện công tác phụ nữ, bình đẳng giới, phát huy vai trò của phụ nữ.
Thứ ba, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới; đóng góp cho việc tổng kết, đánh giá, bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, định hướng của Đảng, tổng kết 40 năm thực hiện đường lối đổi mới và chuẩn bị một bước cho việc xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng.
Với tinh thần khoa học, dân chủ và trách nhiệm, tôi tin tưởng rằng, Hội thảo của chúng ta sẽ có nhiều thảo luận mang tính đột phá, đề xuất được nhiều kiến nghị thiết thực, có giá trị để phát huy vai trò của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Xin được chúc đồng chí Trương Thị Mai và các đồng chí, các nhà khoa học cùng toàn thể quý vị đại biểu sức khỏe, hạnh phúc và nhiều thành công.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hội LHPN Việt Nam